Breaking News

++ Chào mừng các bạn ghé thăm Blog của Cộng Đoàn Sinh Viên Công Giáo Thạch Bích ++ Mong các bạn góp ý để Blog ngày càng phát triển ++

CỬ ĐIỆU LTT SVCG THẠCH BÍCH LẦN THỨ X

Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2016

Suy niệm Chúa nhật 32 Thường niên C

Đời này và đời sau 
 Chúa nhật 32 Thường niên C Lc 20,27-38
 Chúng ta đang sống trong tháng các linh hồn. Đây là dịp rất thuận tiện để giúp chúng ta xác tín và hiểu rõ hơn về sự sống đời sau, sự sống sau khi chết. Mọi người trên trần gian này đều phải chết.
Trước cái chết, nhiều dân tộc vẫn tin rằng những người quá cố vẫn còn mãi. Chẳng hạn, người Việt Nam chúng ta ‘thờ cúng’ ông bà cha mẹ tổ tiên, nếu không tin có sự sống đời sau, thì người Việt chẳng bao giờ làm như vậy. Còn người Do-thái thì tin rằng ‘Thiên Chúa sẽ cho những người trung thành với Lề Luật được sống lại để hưởng sự sống đời đời’ (x. 2Mcb 7,1-2.9-14). Tuy nhiên không phải ai cũng tin sự sống vẫn còn mãi, không bị chấm dứt sau khi chết. Có những cá nhân, những tập thể chủ trương chết là hết, chẳng còn gì. Đất nước Do-thái thì có những người thuộc nhóm Sa-đốc. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Đối nghịch với nhóm Sa-đốc là nhóm Biệt phái và đại đa số dân chúng Do-thái, luôn tin có sự sống đời này và có sự sống đời sau. Đất nước Việt Nam chúng ta, thì có những người cộng sản với chủ trương tam vô: ‘vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo’. Họ chỉ tin có đời này mà thôi! Đối nghịch lại với những người cộng sản, thì các tôn giáo và đa số dân chúng Việt Nam đều tin có sự sống đời này và sự sống đời sau. Niềm tin về sự sống đời sau của nhóm Biệt phái và dân chúng Do-thái thời Chúa Giê-su cũng tương tự như niềm tin của đại đa số tôn giáo và dân chúng Việt Nam. Họ quan niệm rằng ‘đời này sao, đời sau vậy’. ‘Đời này lấy vợ gả chồng, đời sau cũng lấy vợ gả chồng’. Chỉ riêng Kitô giáo, dựa vào lời Chúa Giê-su mà khẳng định rằng đời này và đời sau khác nhau: Đời này thì dựng vợ gả chồng, nhưng đời sau thì không. Đời này dựng vợ gả chồng để sinh con cái, duy trì giống nòi, kéo dài sự sống của mình trên trần gian nơi con cái; nhưng đời sau, nếu ‘ai xét đáng được sống lại thì bất tử, họ sống như thiên thần, chẳng còn phải lấy vợ gả chồng nữa’. Trước sự tin và không tin ấy, không phải bao giờ những người không tin cũng tôn trọng sự tự do của những kẻ tin. Cụ thể là nhóm Sa-đốc khi nhận thấy Chúa Giê-su cũng tin vào sự sống lại, họ liền đến chất vấn Ngài. Dựa vào khoản luật ‘thế huynh’ của Mô-sê (x. Đnl 25,5-10), họ bịa ra một câu chuyện lố bịch nhằm chế nhạo và phi bác niềm tin về sự sống lại là ‘bảy anh em trong một gia đình cùng cưới một người đàn bà, nhưng tất cả đều chết... thì khi sống lại người đàn bà này là vợ của người nào?’ Thật là một quan niệm hết sức trần tục, thô thiển và thiếu hiểu biết về sự sống lại của người Do-thái nói chung và của nhóm Sa-đốc nói riêng. Trước vấn nại rất đời và oái ăm này, Chúa Giê-su đã trả lời rất khôn khéo, để vừa chứng minh sự sống lại là một điều hợp lý, vừa giải thích cho người ta hiểu tình trạng của kẻ sống lại như thế nào. Trước hết, để chứng minh sống lại là một điều hợp lý, Chúa Giê-su đã lập luận rằng “Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, chứ không phải của kẻ chết”. Chỉ có kẻ sống mới được hưởng tình thương của Chúa, còn kẻ chết thì không. Nếu chết là hết, thì Chúa làm Chủ làm Chúa với ai, chẳng nhẽ làm ‘tướng không quân’! Nếu chết là hết thì còn ai mà hưởng tình thương của Chúa. Bởi vậy, Thiên Chúa phải cho kẻ chết sống lại, để chứng thực quyền làm chủ làm chúa của Ngài trên vũ trụ vạn vật và để những ‘ai xét là xứng đáng sống lại’ được vui hưởng tình thương của Chúa mãi mãi. Lập luận này đối với chúng ta ngày nay xem ra hơi lạ tai, khó hiểu. Nhưng đối với người Do-thái vốn rất quen với quan niệm “Thiên Chúa của tổ phụ Abraham... là Thiên Chúa của kẻ sống”, thì họ đều cảm thấy dễ hiểu và dễ chấp nhận. Sau đó, Chúa Giê-su còn giải thích rằng tình trạng của những kẻ chết mà Thiên Chúa ‘xét thấy đáng được sống lại ở đời sau’, thì khác hẳn với cuộc sống hiện tại trên dương gian, ‘chẳng còn phải cưới vợ lấy chồng’ vì cuộc sống ấy bất tử và rất thánh thiện ‘giống như các thiên thần’, cuộc sống ấy là cuộc sống kết hiệp thâm sâu với Thiên Chúa, là cuộc sống của những người ‘con Thiên Chúa’. Tóm lại, chỉ một mình Chúa Giê-su mới là trọng tài xác quyết chắc chắn có sự sống lại, dựa vào mạc khải từ miệng Thiên Chúa và cũng chỉ mình Chúa Giê-su mới cho biết khái niệm chính xác về sự sống lại. Tuy nhiên, thế giới mai sau con người được phục sinh vinh hiển hay phải tủi nhục cũng còn tuỳ thuộc vào đời sống hiện tại trên dương gian tin hay không tin, chấp nhận hay từ chối Chúa, làm lành hay làm dữ như dụ ngôn ‘ngày phán xét’ ở nơi Tin mừng thánh Matthêu đã mô tả (x. Mt 25,31-46). Lạy Chúa Giê-su, xin cho mỗi người chúng con tin rằng ‘có sự sống lại ở đời sau’ và chăm chuyên làm việc lành phúc đức, để mai ngày chúng con được kể vào số những người được Chúa xét đáng vui hưởng sự sống bất tử và thánh thiện như thiên thần của những kẻ làm con Thiên Chúa. Amen
 Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu 


 Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống 
 Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XXXII Năm – C (Lc 20, 27-38) 
 "Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa" hay "vì Chúa." (Lc 20, 37-38) Augustine nói rất đúng: Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người để từng phút giây "hướng về Ngài". Quả thật, Thiên Chúa trao ban sự Thiện tốt hảo, kể cả chính mình cho con người để con người được sống. Cái chết không là một phần kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa: "Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu" (Kn 1, 13-14). Do tội, sự chết đã du nhập vào trong tạo dựng, Thánh Phaolô nói: "Nọc của sự chết là Tội, mãnh lực của Tội là Lề luật" (1Cr 15, 56), đúng là tội lỗi sinh ra sự chết vì sự chết cắt đứt mối liên hệ với Đấng Hằng Sống làm ra sự sống. Nhưng "Ðội ơn Thiên Chúa, Ðấng đã ban toàn thắng cho ta nhờ Chúa chúng ta, Ðức Yêsu Kitô!" (1 Cr 15, 57). Vâng, vinh quang cho Đức Giêsu Chúa chúng ta, Đấng đã chiến thắng kẻ thù trên trần gian ! Lời Hằng Sống đã kết thân với phận người, được đánh dấu bằng cái chết, để chiến thắng sự chết vào buổi sáng Phục Sinh. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa đã xuống đầy lòng chúng ta, những người chịu phép Rửa tội, ngõ hầu chiến thắng của Chúa Kitô Phục sinh hiện diện trong đời ta. Đức Kitô đã phục sinh, sự chết không làm gì được Ngài nữa. Nên "nếu ta sống, chính cho Chúa mà ta sống; và nếu ta chết, thì chính cho Chúa mà ta chết. Vậy dù sống, dù chết, ta vẫn thuộc về Chúa," (Rm 14, 8 ). Làm sao không ngạc nhiên cùng với Thánh Phaolô kêu lên: "Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?" (1Cr 15, 55) Đó là lý do tại sao "những người được coi là xứng đáng lãnh phần thưởng trong thế giới mai ngày và sự sống lại từ cõi chết, nghĩa là những người đã được rửa tội, không thể chết nữa: họ là con cái Thiên Chúa, thừa hưởng sự sống lại." Tất nhiên, chúng ta không thể tưởng tượng được sự viên mãn ở đời sau sẽ ra sao, các thiên thần gợi ý cho thấy một cuộc sống hoàn toàn dành cho việc ngợi khen Chúa, trong sự hiệp thông hoàn hảo và tạ ơn muôn đời. Vì sự chết sẽ không làm gì được nữa, không cần thiết để đảm bảo sự sống còn của muôn loài: hôn nhân như một tổ chức để duy trì cuộc sống không có lý do để tồn tại nữa. Chúng ta sống trong một mối quan hệ tình yêu hoàn hảo với Thiên Chúa và với nhau, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần. Như thế chúng ta sẽ hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu cho phái Sađốc: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại". (Lc 20, 34-36) Câu trả lời của Chúa Giêsu trước vấn nạn kẻ chết sống lại của nhóm Sađốc cho thấy: Cái nhìn của họ về cuộc sống đời sau còn quá hẹp hòi. Họ không hiểu ý nghĩa của sự phục sinh hàm chứa trong câu Thánh Kinh: Thiên Chúa là Chúa các tổ phụ. Người là Thiên Chúa của kẻ sống (x. Lc 20, 37-38). Nếu tin Thiên Chúa hằng hữu thì phải tin con người có cuộc sống vĩnh cửu. Họ không chấp nhận sự kiện con người sẽ sống lại là vì họ không chịu tìm hiểu Kinh Thánh. Ðó là điểm đáng trách của họ. Họ không biết vì không chịu tìm hiểu và xin Chúa soi sáng. Ước gì các cặp vợ chồng đừng có lo lắng: vì tình yêu đích thực của chúng ta trong cuộc sống hay chết này không chỉ bảo toàn nhưng biến đổi: vợ chồng nhận biết Thiên Chúa trong ánh sáng của tình yêu liên kết họ với nhau cách hoàn toàn trong một nụ hôn vĩnh cửu. Hôn nhân không kết thúc với cái chết, nhưng biến đổi. Chúa chúng ta làm mất đi tất cả những hạn chế đặc trưng của sự sống trên trái đất. Tương tự như thế, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái hoặc giữa bạn bè với nhau sẽ không bị quên lãng. Nhưng nói rằng hôn nhân trần thế là một kinh nghiệm tiêu cực, hiểu lầm và đau khổ. Cái chết không cắt đứt các mối liên hệ có còn là lý do để sợ hãi nữa không? Không, bởi vượt qua thời gian vào cõi đời đời, cái xấu sẽ biến mất chỉ còn cái tốt. Tình yêu hiệp nhất họ với nhau, ngay cả khi nó chỉ kéo dài một thời gian ngắn, thấy phát triển đầy đủ, trong khi các khuyết điểm, hiểu lầm, đau khổ mà họ đã gây ra cho nhau sẽ tan biến. Nhiều cặp vợ chồng sẽ được trải nghiệm tình yêu đích thực giữa họ với tình yêu, niềm vui và sự viên mãn của hiệp thông mà họ đã không được biết đến trên trái đất cho đến khi họ được đoàn tụ "trong Thiên Chúa", vì Ngài sẽ hiểu tất cả, người ta sẽ bảo đảm tất cả, tha thứ tất cả. Vậy, nói gì về những người đã lập gia đình cách hợp pháp với nhiều người như góa vợ và góa chồng rồi tái hôn? (Cụ thể trường hợp phái Sađốc giới thiệu về Chúa Giêsu, bảy anh em đã liên tục kết hôn với cùng một người phụ nữ). Đối với họ là bằng nhau, lặp đi lặp lại cùng một điều: đó là tình yêu đích thực và món quà mỗi cặp vợ chồng, khách quan tất cả đều tốt, Thiên Chúa sẽ không xóa nhòa nhưng hoàn tất nó ở trên trời. Trong Thiên Chúa sẽ không có sự cạnh tranh hay ghen tuông: những điều không thuộc về tình yêu đích thực, hay dưới ách thống trị do hậu quả của tội lỗi, sẽ không tồn tại ở trên trời. Tóm lại có "một cuộc sống khác" đang chờ đợi chúng ta, như Đức Giêsu nói: "Họ là con cái Thiên Chúa". Đối với Chúa Giêsu chắc chắn rằng một vài lời nói lên tất cả, bởi vì đối với Ngài không có hạnh phúc lớn hơn: là con cái Thiên Chúa được chia sẻ trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa. Sống, yêu, ca tụng, vui mừng... tất cả những động từ này sẽ đề cập đến thực tế duy nhất tồn tại ở nơi Thiên Chúa, những người cuối cùng sẽ là "tất cả trong mọi sự"; "Bởi lòng yêu mến Người đã tiền định cho ta được phúc làm con, nhờ Ðức Yêsu Kitô, và vì Người, chiếu theo nhã ý của thánh chỉ Người"(Ep 1, 5). Lạy Chúa, "Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!" (Tv 16). Amen.                                                                                                                     Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét